Với con nhà võ, nơi tập võ không phải là Câu Lạc Bộ như nhiều người
nghĩ, mà là một Võ đường, Đạo đường; người Nhật gọi là Dojo (Jo là nơi,
Do là đạo – bộ quy tắc ứng xử của một người, một tổ chức. Như vậy Dojo
là nơi trui rèn đạo của người luyện võ).
“Học lễ” là nội dung được thực hành liên
tục, kiên định, nhất quán trong suốt quá trình dạy võ và học võ. Ngày
đầu tiên đi học võ, người học phải trải qua thủ tục “Bái sư nhập môn”.
Tuy không rườm rà như ngày trước, nhưng phép tắc thì phải duy trì: người
học thắp cây hương trên bàn thờ Tổ, được gặp mặt Thầy, được giới thiệu
với vị Huấn luyện viên trực tiếp huấn luyện, đặc biệt được hướng dẫn để
biết phép tắc và những qui định của Võ đường… Bởi vì nơi tập là một Đạo
đường, nên mỗi lần vào ra, người học phải cúi chào. Bất cứ lúc nào gặp
thầy, bạn, huynh đệ, đều phải cúi chào. Bắt đầu và kết thúc một buổi
tập, môn sinh phải chào Tổ, chào Thầy. Bắt đầu và kết thúc một trận đấu
tập, hai đối thủ phải cúi chào nhau. Bắt đầu và kết thúc một bài quyền
bao giờ cũng là cái chào. Bài tập đầu tiên trong cuộc đời học võ là bài
chào. Trong Võ đường, và qua các kỳ kiểm tra, người học võ được đánh giá
dựa trên hai tiêu chuẩn: thành tựu công phu và phẩm chất đạo đức, được
thể hiện qua cung cách quan hệ, ứng xử với mọi người… Với những ai hiểu,
thì đó không chỉ là hình thức mà còn bao hàm cả nội dung. Với những
người học còn nhỏ tuổi, chưa kịp hiểu, thì cứ kiên trì thực hành lễ, một
ngày kia tất sẽ ngộ ra ý nghĩa bên sau mỗi cái chào.
Người học võ chân chính không coi cái
chào là lễ, mà là hình thức của lễ, cách thể hiện lễ. Cái chào ngầm chứa
nội dung vô cùng quan trọng, vốn là kim chỉ nam của người học võ, đó là
cái đạo của võ và đạo đức của người học võ, gọi chung là võ đạo. Cái
chào chỉ như bóng điện, võ đạo mới là dòng điện. Không có dòng điện,
bóng điện không thể toả sáng; không có tinh thần võ đạo, cái chào chỉ
còn là động tác gật đầu.
Cũng như quá trình tích tụ năng lượng để
thắp sáng bóng đèn, quá trình học võ là quá trình tu dưỡng phẩm chất,
đạo đức làm nền tảng cho hành vi ứng xử trong các mối quan hệ xã hội.
Tuỳ theo từng mối quan hệ xã hội mà hành vi ứng xử khác nhau. Ví dụ, đối
với cha mẹ khác đối với thầy, với bạn; đối với người thân, khác với kẻ
sơ; với ân nhân khác với kẻ thù; cung cách đi dự đám cưới khác với dự
đám ma… Nhưng dù sắc thái có khác nhau thế nào, thì tất cả đều được hình
thành trên một nguyên tắc chung. Nói cách khác, nội dung ứng xử thì tuỳ
từng mối quan hệ; nhưng nguyên tắc ứng xử thì chung nhất.
Văn hóa người Việt cũng quen với “ngũ thường” – năm đạo đức tối thiểu của Nho giáo. Trong đó cũng có chữ “Lễ” |
Người đời thường coi trọng hình thức của
lễ, nội dung của lễ, nhưng con nhà võ còn coi trọng nền tảng, nguyên
tắc của lễ. Các nguyên tắc đó là:
Nhân ái và tôn trọng
Nói tôn trọng là tôn trọng quyền tồn
tại, quyền sống, quyền làm người, quyền làm người không giống ai. Trong
đời sống xã hội, vị trí mỗi người tuy chẳng giống nhau, nhưng nhân cách
làm người thì không khác nhau – ai cũng sinh ra và lớn lên bằng trái tim
của mẹ; ai cũng bình đẳng trước thượng đế và trước cái chết. Có tinh
thần tôn trọng, người tập võ không hạ mình trước bất cứ ai, không phân
biệt ai hơn ai; không tâng bốc người trên, không miệt thị người dưới.
Tôn trọng con người, tôn trọng mình, tôn trọng đối thủ, đó là một trong
những phẩm chất hàng đầu của người học võ.
Nhân ái là mục đích cuối cùng của người
học võ, nó giúp định hướng hành vi của người học võ. Dù nghĩ gì, làm gì,
nói gì, xử sự thế nào, tất cả đều phải nhằm mục đích làm sao cho con
người tốt hơn, cho mình tốt hơn, cho đời đẹp hơn. Nếu không vì lòng nhân
ái, hành động của người học võ không khác chi hành động của tên cướp,
nhưng nếu vì lòng nhân ái, hành động của anh ta sẽ là hành động anh hùng
– “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
(Nguyễn Trãi).
Khiêm tốn và nhún nhường
Thói kiêu căng tự mãn là kẻ thù lớn nhất
của người học võ. Sự hiểu biết không bao giờ có giới hạn. Ai không thấy
thiếu sẽ không thêm được gì. Ai không biết ẩn mình sẽ không bay cao.
Cái thùng đã đầy thì không còn chứa được nữa. Muốn nhảy lên cao thì phải
rùn thấp. Muốn vượt qua xà phải biết uốn mình. Với người học võ, đức
khiêm tốn không làm cho mình bé lại mà giúp mình có sức mạnh đi xa về
trước; không làm cho mình thấp hơn đối thủ mà làm cho đối thủ không cao
hơn mình. Đức khiêm tốn còn thể hiện đạo đức của người học võ: yêu
người, vì người, “đi trước về sau”, “lo trước cái lo của thiên hạ, vui
sau cái vui của mọi người”.
Niềm tin và bản lĩnh
Ở đời, không ai có tất cả, không ai
không có tất cả. Con gà trống gáy một tiếng, cả làng thức dậy, nhưng
không đẻ được trứng; con gà mái đẻ được trứng, nhưng không làm kinh động
được ai. Ông nông dân lấy vợ, sinh con, lao động cực nhọc nuôi sống gia
đình, nhưng không làm được nhạc. Ông nhạc sĩ tài danh sáng tác cả pho
nhạc hay làm rung động trái tim bao thế hệ, nhưng không có vợ con, không
cuốc nổi một luống đất. Thật vô lý nếu ông nông dân nọ mặc cảm vì không
sáng tác được nhạc; hoặc ông nhạc sĩ kia đau buồn vì không làm tròn
thiên chức lấy vợ, sinh con. Cho nên, học võ là học để biết mình là ai,
biết cách hun đúc mình, hoàn thiện mình, có niềm tin và tự hào về mình.
Mất niềm tin là tự đánh mất vũ khí của mình. Niềm tin, đối với người trí
thức, đó là sức mạnh nội tâm; đối với bậc thiền sư, đó là tinh thần vô
uý; đối với người học võ, đó là dũng khí của người chiến sĩ. Mất niềm
tin, con người hoặc rơi vào tự ti, trầm cảm; hoặc trở nên hung hăng, gây
hấn. Chỉ có bản lĩnh, có niềm tin, người học võ mới có sức mạnh để thể
hiện cái đức nhân ái, khiêm tốn, nhún nhường, và tôn trọng người khác.
Nhân ái và tôn trọng, khiêm tốn và nhún
nhường, bản lĩnh và niềm tin, đó không chỉ là nền tảng của mọi hành vi
ứng xử, mà còn là nền tảng của tinh thần Hoà Hợp. Mục đích tối thượng
của người học võ là thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và con
người với tinh thần: cộng tác, cộng đồng, cộng hưởng, cùng hưởng… trong
xã hội; thái hoà trong gia đình, và an lạc trong bản thân. Đây là điểm
thanh niên chúng ta đang thiếu, thậm chí thiếu trầm trọng. Thanh niên
chúng ta thiếu cái thuận mà thừa cái nghịch, thiếu cái hoà mà thừa cái
bất hoà, thiếu đoàn kết mà thừa chia rẽ. Tôi từng nghe nói: “Một người
Việt Nam và một người Nhật, thì người Nhật không bằng người Việt Nam. Ba
người Việt Nam và ba người Nhật, thì ba người Việt Nam không bằng ba
người Nhật”. Ấy là cách khẳng định thói xấu bất hợp tác, mất đoàn kết
của người mình đó thôi. Vì sao ư? Có chi đâu, là vì chúng ta thiếu cái
đức tôn trọng, yêu thương, khiêm tốn, bản lãnh và một sức mạnh nội tâm. Ở
đời, phàm kẻ nào không có sức mạnh nội tâm, không có bản lĩnh, kẻ đó sẽ
không nói được tiếng xin lỗi, xin cám ơn, xin vui lòng, xin nhận trách
nhiệm… Và chắc chắn kẻ đó không thể thiết lập được mối quan hệ tốt đẹp
với mọi người.
Võ thuật gián tiếp dạy con người giá trị của sự tôn trọng nhau trong xã hội. |
Tất nhiên, ở trường học và trong gia đình, ai cũng mong muốn dạy con em mình biết lễ phép, biết cách ăn ở, cách đối nhân xử thế. Nhiều trường học nêu cả khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” ở cổng trường và trong các lớp học. Nhưng xem ra, chỉ có võ là dạy cái lễ cho người học hiệu quả nhất. Nói vậy là vì, chỉ có võ mới có chương trình học vừa cả võ vừa cả lễ; nội dung kiểm tra lên đai đẳng cũng bao gồm cả lễ và võ. Ngoài ra, việc thực hiện chương trình “học lễ” xuyên suốt, nhất quán, và triệt để. Đặc biệt, võ coi trọng đào luyện cái gốc song song với cái ngọn, nội dung song song với hình thức, nền tảng song song với biểu hiện – coi trọng việc giáo dục cho người học tinh thần nhân ái, tôn trọng con người, khiêm tốn, niềm tin, và bản lĩnh, song song với việc dạy cho các em cách đối nhân xử thế, cách quan hệ ứng xử cho phải phép, phải đạo với mọi người.
Tiếc rằng, hiện nay nhiều người hiểu
không đúng về võ. Họ cho võ là đánh nhau, là vai u thịt bắp, là mặt rổ
mặt rạch… Họ không hề hiểu võ là một hình thái nghệ thuật, là công cụ
giáo dục đạo làm người; học võ là học đạo làm người. Thêm vào đó, cũng
vì có nhiều người dạy võ chỉ dừng lại ở mức “võ thuật”
mà chưa đạt tới được mức “võ lý” và “võ đạo” – chỉ dạy cho người học
cách đánh mà không dạy cho họ đánh ai, đánh thế nào, bảo vệ ai, bảo vệ
cái gì… Đã thế, trong xu thế thị trường hoá, thương mại hoá, thể thao
hoá, võ bị xếp ngang hàng với các môn thể thao khác. Người ta chạy theo
thành tích, huy chương mà quên mất sứ mệnh giáo dục; chạy theo hư danh
mà quên đi thực chất. Tất nhiên, võ cũng là một môn thể thao, nhưng
không phải đơn thuần chỉ là một môn thể thao. Võ là môn thể thao truyền
thống. Nó vừa phải làm nhiệm vụ đào tạo những vận động viên xuất sắc cho
thể thao nước nhà, vừa phải hoàn thành sứ mệnh dạy cho người học sức
khoẻ, phẩm chất đạo đức, đối nhân xử thế.
Hẳn chúng ta đều biết, “Tinh thần Nhật
Bản”, “Sức mạnh Nhật Bản” được hun đúc bởi ba dòng sữa: Thần đạo Shinto,
Phật giáo Thiền tông, và Tinh thần Võ đạo. Trong suốt bốn nghìn năm
lịch sử dựng nước và giữ nước, võ là một trong hai dòng suối tạo nên Sức
mạnh Việt Nam – “Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững. Lưng đeo gươm
tay mềm mại bút hoa. Trong và thật sáng hai bờ suy tưởng. Rất hiên ngang
mà nhân ái chan hoà” (Huy Cận). Từ Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn… các bậc
khai quốc, công thần đều xuất thân từ con nhà võ. Nhiều trong các triều
đại ấy đều có trường dạy võ, chương trình học võ, và các kỳ thi võ (Tú
tài, Cử nhân, Tiến sĩ). Rõ ràng, cùng với văn, võ đã góp phần hun đúc
nguyên khí quốc gia, sức mạnh dân tộc; góp phần đào luyện con người Việt
Nam giàu lòng yêu nước, có sức mạnh, niềm tin, và khí phách; được thử
lửa qua suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Ngày nay, đất nước ta hoà bình, thống
nhất, thịnh vượng. Chúng ta có nhiều bạn bè, nhiều đối tác khắp năm
châu. Chúng ta đang hân hoan vươn ra biển lớn. Nhưng nhìn lại, xem ra
dòng suối võ ngày nào không còn chảy nữa! Không biết nó tắt từ thời nào?
Vì sao tắt? Có cần khơi thông không? Làm thế nào khơi thông trở lại để
võ tiếp tục góp phần mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước? Rất
cần các công trình nghiên cứu nghiêm túc, các hội nghị khoa học để làm
sáng tỏ những vấn đề ấy.
Thiết nghĩ, dù đứng trước kẻ thù hay
đứng trước đối tác làm ăn, mỗi dân tộc, mỗi con người đều phải cần có
sức mạnh, niềm tin, và khí phách. Thiếu sức mạnh, niềm tin, và khí
phách, thì không thể đánh thắng ngoại xâm; thiếu sức mạnh, niềm tin, và
khí phách, cũng không thể làm ăn sòng phẳng với người.
Theo http://vothuat.vn/
0 comments:
Post a Comment