Nhưng đồng thời tôi lại thấy kích thích, hào hứng vì nhìn những đàn anh đàn chị bay trên 5,7 người quỳ gối, lộn qua, lộn lại, té đằng trước, ngã đằng sau, trông thật đẹp mắt.
Rồi những buổi đầu tiên tập luyện đã qua đi, tôi đã mê man với các thế tập và thấy rằng võ học thật tuyệt vời, để sau đó hào hứng ghi tên đi học luôn 12 buổi một tuần, sáng 2,4,6 học Judo, sáng 3,5,7, học Aikido, chiều 2,4,6 học Karate, chiều 3,5,7 học Jujitsu và Kendo. Tôi say mê học võ để bị thương tật, gẫy cổ tay, gẫy lưng, rớt ngón tay ngón chân, quẹo cùi chỏ, bị mẹ đánh cho nhừ tử, đốt cả quần áo võ sinh.
Tôi phải mượn quần áo của bạn để mặc, xin tiền chị hai để đóng tiền học. Đau khổ nhất là tôi quên cả học chữ, nên thi Tú Tài Một rớt luôn hai kỳ, phải học lại một năm. Đến kỳ thi đầu năm sau, cũng rớt, bị mẹ đánh đòn, các anh chị la, tôi buồn quá, tính tự tử luôn cho rảnh nợ.
Tôi leo lên nóc nhà hai tầng, ngồi trên đó, khóc một hồi, rồi toan nhẩy xuống, nhưng chợt trong đầu tôi nhớ lại lời thầy Nguyễn Bình dặn đi dặn lại: “Thắng không kiêu, bại không nản”. Tỉnh trí lại, tôi tà tà leo xuống, nghiến răng học như điên, và kỳ thi thứ hai, đậu rất cao. Bây giờ nghĩ lại, mới nghiệm thấy trong võ học có đạo, và điểm đầu tiên về Đạo trong võ học là “Thắng không kiêu, bại không nản.” Đó là một Đạo trong võ học.
Nói về Đạo trong võ học, là nói về Đường lối, là Chân lý, là Giáo Dục. Võ học chính thống, thì cho dù là võ Việt Nam, võ Nhật, võ Trung Hoa, Đại Hàn, hay bất cứ môn phái của dân tộc nào cũng có Đạo. Nói chung, Võ Học có năm Đạo: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
1. Chữ Nhân
“Nhân” có nghĩa là lòng thương người, trên căn bản Nhân đạo. Võ học chính thống luôn dậy người phải có lòng Nhân. Học võ không phải để hại người, để khoe tài, để kiêu căng, chà đạp người khác, mà học võ là để vừa Tự vệ vừa để bảo vệ người yếu đuối. Không một môn võ chính thống nào dậy võ sinh là học xong, các trò phải đi xưng hùng xưng bá, phải giết chết địch thủ như trong các phim chưởng, truyện chưởng mà chúng ta thường xem. Tất cả những điều đó chỉ là kết quả của sự tưởng tượng, nhất là đối với dân tộc Việt Nam chúng ta.
Nếu lần giở lại lịch sử trên 4000 năm văn hiến, từ khi lập quốc đến nay, đến thời đại chúng ta, từ Nam, qua Trung, ra Bắc, chưa hề bao giờ nghe nói đến có những môn võ nào dậy đệ tử đi làm hại người cả. Ngược lại, chỉ thấy những môn võ rèn luyện môn sinh để giữ gìn đất nước, bảo vệ người cô thế. Đến khi những môn võ nước ngoài du nhập vào đất nước ta, cũng chỉ nghe nói đến chữ “Nhân” trong võ học. Các đòn thế đấm, đá, vật, xiết cổ, đè, quăng, ném đều hạn chế người xử dụng tới một điểm nào đó. Những cú đánh kết liễu chỉ được dành cho các môn sinh ở trình độ cao, có thể tự điều khiển được mình rồi, mới được học cách xử dụng, với lời căn dặn là “chỉ khi nào nguy cấp, không còn cách tự vệ nào khác, mới được áp dụng đòn hiểm để thoát thân.” Do đó, từ cả trăm năm nay, không mấy ai nghe nói đến có những trường hợp tử vong chỉ vì người xử dụng võ thuật nóng giận, đấm đá kẻ địch đến chết hoặc chết vì thách đấu.
2. Chữ Nghĩa
Một khi nói đến chữ “Nghĩa”, người ta thường nghĩ ngay đến “Nghĩa hiệp” và “hành hiệp trượng nghĩa”. Mà muốn hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổn phò nguy, thì phải biết võ nghệ. Do đó, võ học đi liền với “nghĩa”. Người học võ thường thích ra tay nghĩa hiệp. Giữa đường thấy chuyện bất bằng là phải ra tay ngay. Nghĩa còn dậy chúng ta phải biết trả ơn một khi đã nhận ơn. Người học võ thường không bao giờ muốn nợ ai mà không trả. Nhất là nghĩa Thầy, Cô, nghĩa Sư Phụ, Đệ Tử. Học chữ có thể quên Thầy, nhưng học võ thì không bao giờ có thể không nhớ ơn Thầy đã nắm tay, cầm chân, chỉ cho một thế đá, thế đấm, không thể quên lời Thầy dặn dò, chỉ bảo, hoặc gắt mắng chỉ vì lo cho môn sinh mau tiến bộ, mà lại không gây thương tích cho chính mình hoặc cho người khác.
3. Chữ Lễ
Lễ là hình thức cư xử giữa môn sinh và Thầy Cô, giữa các môn sinh với nhau, giữa môn sinh của môn phái này và môn phái khác. Lễ được thể hiện ngay ở cách chào kính, bái tổ trước khi bước ra sân đấu. Tùy theo môn phái, mà cách chào kính, bái tổ khác nhau, thường thì bái Tổ sư, kính Thầy, chào bạn, có môn phái chào cả khán giả, có môn phái lại chào cả nơi chốn mà mình tập luyện, song đấu nữa. Trong môn phái Nhu Đạo, khi thi lên đẳng cấp đai đen, ngoài thi song đấu, thi kỹ thuật còn thi Lễ nữa. Các võ sinh đai đen phải di chuyển từng bước chân, từng cử động thật chậm đúng Lễ Nghi, đúng phong thái mới được trao bằng. Chữ Lễ trong võ học còn dậy các môn sinh quy củ trường tập, kính trên nhường dưới. Lễ dậy cách bảo vệ danh dự của Môn phái, bảo vệ danh dự cho nhau. Người đã tập võ chân chính càng ngày càng cung kính, nhún nhường, không cao ngạo, không tự phụ, khoe khoang, không biểu diễn võ công khi không cần thiết. Chữ “Lễ” trong Võ học được trọng kính và áp dụng hơn rất nhiều chữ lễ trong khi học chữ. Người Thầy trong Võ học khi xưa còn có quyền sinh sát với môn sinh hơn cả cha mẹ nữa cũng chỉ vì chữ “Lễ”.
4. Chữ Trí
Người học võ nhất định phải học những cách phản công, xử thế trong các trường hợp ngặt nghèo. Môn võ nào cũng dậy cách biến hóa, phản đòn, nghĩa là dậy các môn sinh dùng Trí tuệ đi kèm theo Võ thuật. Không có Trí, võ chỉ là những đòn hùng hục như trâu, gặp đối thủ lanh lợi thì nhừ đòn. Trí trong các môn võ học chính thống không phải là lường gạt, mưu mô, mặc dù có đòn hư, đòn giả. Người võ sinh chính nhân quân tử chỉ dùng Trí để không cho địch thủ biết mình định xủ dụng đòn nào thật, đòn nào giả. Những cạm bẫy để lừa gạt người không phải là Trí mà chỉ là phương pháp tiểu nhân mà thôi. Ngoài ra, các môn võ chân chính cũng dậy môn sinh phải biết suy nghĩ để cho võ thuật được xử dụng đúng lúc và đúng cách hầu đúng với câu :Một trí tuệ minh mẫn trong một thân thể tráng kiện.
5. Chữ Tín
Không cần phải giải thích nhiều, ai cũng hiểu, người có võ học luôn biết giữ chữ Tín của Người Anh Hùng, đã nói là làm, đã hứa là phải giữ lời. Người có chữ Tín thà chết không để cho danh dự bị xúc phạm vì nói mà không giữ lời. Trong chiến tranh, đã biết bao võ sinh hy sinh thân mình chỉ vì một chữ Tín với Giang Sơn, Tổ Quốc.
Tóm lại, nói đến Võ Học là nói đến Đạo, đến Lễ Nghĩa, Trung Tín, đến Danh Dự, đến lòng Nhân Từ và Trí Tuệ. Võ học không chỉ là tay đấm, chân đá, quật, vật, ném, tung mà là cả một hệ thống Đạo trầm ẩn, thâm sâu. Người học võ thâm thúy cũng như người tu đạo. Cho nên, khi nhìn một vị Tôn Sư thật sự, chúng ta tự nhiên thấy kính nể, vì những ưu trầm của Đạo đã thể hiện lên khuôn mặt cũng như một vị tu hành đã thành chánh quả. Không khắc khổ, cau có, không giận bùng, không buồn bã. Chỉ cất tiếng Sư Tử Hống để áp đảo địch thủ, chứ không nổi giận gào thét bất thường. Chỉ ra tay vũ bão để giảm nhẹ đau thương, chứ không biểu diễn, dậm dọa người cô thế. Võ học cao quý như thế nên võ học chính thống càng ngày càng thịnh. Những thế võ quái đản, hại người, hại thân như của Nhạc Bất Quần, Đông Phương Bất Bại như trong chuyện Chưởng thì tự nhiên dần dần tàn lụi.
Võ thuật không chỉ là môn học về kỹ thuật luyện tập chiến đấu, không chỉ là một môn nghệ thuật mà còn là môn khoa học nữa. Bởi vì hình thức của nó được xây dựng từ các lý thuyết căn bản của khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh học đồng thời nội dung của nó chứa đựng lý thuyết của khoa học xã hội như
triết học, nhân văn….. Tính triết lý và nhân văn đó chính là nét để khu biệt võ thuật với các môn thể thao khác. Bởi lẽ người ta chỉ gọi là Nhu đạo (Judo), Không thủ đạo (Karate), Hiệp khí đạo (Aikido), Thái cực đạo (Teakowndo) chứ không ai gọi là bóng đá đạo, cầu lông đạo hay quần vợt đạo bao giờ cả. Chữ “Đạo” trong võ được xã hội hóa và ăn sâu trong máu thịt các dân tộc có nền võ học lâu đời như Nhật bản, Trung quốc, Triều tiên, Việt nam …… Như vậy, võ học được hình thành từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất cả mọi chuyển động cơ học của các kỹ thuật tay chân đều ngầm chứa nội dung mang tính đạo lý và nhân bản sâu sắc. Suy cho cùng, trong sâu xa võ có hai phần: thuật và đạo. Thuật chỉ đủ để giúp người ta biết võ. Còn đạo mới đưa người ta đến tận cùng của cái biết võ mà hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất mà người tập võ chân chính phải phấn đấu đạt đến.
triết học, nhân văn….. Tính triết lý và nhân văn đó chính là nét để khu biệt võ thuật với các môn thể thao khác. Bởi lẽ người ta chỉ gọi là Nhu đạo (Judo), Không thủ đạo (Karate), Hiệp khí đạo (Aikido), Thái cực đạo (Teakowndo) chứ không ai gọi là bóng đá đạo, cầu lông đạo hay quần vợt đạo bao giờ cả. Chữ “Đạo” trong võ được xã hội hóa và ăn sâu trong máu thịt các dân tộc có nền võ học lâu đời như Nhật bản, Trung quốc, Triều tiên, Việt nam …… Như vậy, võ học được hình thành từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức, tất cả mọi chuyển động cơ học của các kỹ thuật tay chân đều ngầm chứa nội dung mang tính đạo lý và nhân bản sâu sắc. Suy cho cùng, trong sâu xa võ có hai phần: thuật và đạo. Thuật chỉ đủ để giúp người ta biết võ. Còn đạo mới đưa người ta đến tận cùng của cái biết võ mà hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất mà người tập võ chân chính phải phấn đấu đạt đến.
Tiếng “Đạo“ của người phương Đông – nơi nhu cầu và tài nghệ con người được nghệ thuật hóa và triết học hóa tới cao độ. Quả thật, chưa có một từ ngữ tương đương nào của người phương Tây có thể dịch thoát, vì đạo ngoài ý nghĩa là “con đường“, là “thông lộ” còn bao hàm cả ý nghĩa về tôn giáo, luân lý và nghệ thuật. Ví dụ : Uống trà là nhu cầu thông thường, nhưng biết cách thưởng thức trà và những ý nghĩa thanh cao của việc uống trà kết bạn, giúp ích xã hội thì đó là Trà Đạo. Ngắm nghía và thưởng ngoạn hoa là thú vui thông thường trong cuộc sống, nhưng biết cách thưởng ngoạn như 1 nghệ thuật và nâng cao nữa về đạo lý giúp ích cho cuộc sống thì là Hoa đạo… vv…..
Khác võ thuật Trung Hoa cũng như Việt Nam nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ thuật Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào mọi sinh hoạt chính trị để hình thành một giai cấp trong xã hội Nhật Bản đó chính là tầng lớp Samourai (Võ Sĩ Đạo). Người Võ Sĩ Đạo được huấn luyện ngay từ nhỏ những kỹ thuật chiến đấu tay không và vũ khí rất lành nghề và quan trọng nhất vẫn là rèn luyện tinh thần Nhật Võ Đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng. Tinh thần đó tạo nên nét đặc trưng của người Võ Sĩ Đạo, bao gồm 5 đức tính tính chính (sự ngay thẳng, đức can đãm, lòng nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm) và 3 đức tính phụ (đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc).
Xưa nay các môn võ phương Đông dù khác nhau ở chiêu thức, nhưng đều có điểm giống nhau ở môn qui: không phản môn, phản thầy; không khoe tài, không ỷ lực hiếp người; không háo sắc, loạn dâm; không thắng vui, thua buồn… Tuy nhiên, người Nhật Bản có điểm khác biệt cơ bản các dân tộc ở quốc gia châu Á khác như Việt Nam, Trung Quốc và nhất là tại các nước Tây phương, chính ở chỗ quan niệm về học võ của họ. Người Nhật Bản đến võ đường với mục đích cao quí là học tập và rèn luyện cái “Đạo” trong võ học, còn đòn thế và cách thi triển chỉ là thứ yếu. Trong khi ở Việt Nam người ta đi học võ với mục đích rất “tầm thường” và thiên về mục đích cá nhân. Họ đi học võ để tự vệ, học để giữ gìn sức khỏe bản thân, rèn luyện để chữa bệnh, để làm việc nghĩa hiệp bênh vực kẻ yếu, có khi chỉ vì bạn bè rủ rê cho vui ……“Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ, võ như lực sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh, võ để luyện thần “
Khác võ thuật Trung Hoa cũng như Việt Nam nặng về xuất thế và cố giữ vị thế độc lập với chính trị, võ thuật Nhật Bản có truyền thống hội nhập ngay vào mọi sinh hoạt chính trị để hình thành một giai cấp trong xã hội Nhật Bản đó chính là tầng lớp Samourai (Võ Sĩ Đạo). Người Võ Sĩ Đạo được huấn luyện ngay từ nhỏ những kỹ thuật chiến đấu tay không và vũ khí rất lành nghề và quan trọng nhất vẫn là rèn luyện tinh thần Nhật Võ Đạo với những điều luật được ghi chép rõ ràng. Tinh thần đó tạo nên nét đặc trưng của người Võ Sĩ Đạo, bao gồm 5 đức tính tính chính (sự ngay thẳng, đức can đãm, lòng nhân từ, đức lễ phép, đức tự kiểm) và 3 đức tính phụ (đức vâng lời, đức trung tín, đức yêu việc).
Xưa nay các môn võ phương Đông dù khác nhau ở chiêu thức, nhưng đều có điểm giống nhau ở môn qui: không phản môn, phản thầy; không khoe tài, không ỷ lực hiếp người; không háo sắc, loạn dâm; không thắng vui, thua buồn… Tuy nhiên, người Nhật Bản có điểm khác biệt cơ bản các dân tộc ở quốc gia châu Á khác như Việt Nam, Trung Quốc và nhất là tại các nước Tây phương, chính ở chỗ quan niệm về học võ của họ. Người Nhật Bản đến võ đường với mục đích cao quí là học tập và rèn luyện cái “Đạo” trong võ học, còn đòn thế và cách thi triển chỉ là thứ yếu. Trong khi ở Việt Nam người ta đi học võ với mục đích rất “tầm thường” và thiên về mục đích cá nhân. Họ đi học võ để tự vệ, học để giữ gìn sức khỏe bản thân, rèn luyện để chữa bệnh, để làm việc nghĩa hiệp bênh vực kẻ yếu, có khi chỉ vì bạn bè rủ rê cho vui ……“Trà như ẩn sĩ, rượu như hào sĩ, võ như lực sĩ. Rượu để kết bạn, trà để hưởng tĩnh, võ để luyện thần “
Người ta thường nói “võ nghệ “ hay “võ thuật” với hàm ý trong võ có nghệ thuật hay võ là một nghệ thuật đặc biệt nhằm chiến thắng hoặc chinh phục một đối thủ nào đó . Nhưng, người ta còn gọi là “võ đạo” , đó là một sự tôn xưng một khi võ thuật đã đạt được cái vi diệu, cái lẽ tối thượng của nó. Khi đó nó đã tự phát lộ được khả năng soi sáng, khả năng giác ngộ, để con người không chỉ vượt thắng đối thủ, vượt thắng ngoại giới, mà cái chính là “vượt thắng chính mình”, tự hoàn thiện nhân cách, tự soi sáng tâm linh mình qua một quá trình rèn luyện gian khổ, qua hành trên con đường chông gai để đạt tới đạo .Đạo ấy của võ cũng giống như đạo Thiền, là quá trình tự khai sáng. Tổ sư Phật giáo thiền tông Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) tương truyền vừa là người khai sáng đạo thiền vừa là người khai sáng môn võ Thiếu Lâm. Hành trình khai sáng ấy trải qua suốt 9 năm trời ông “diện bích” – quay mặt vào vách đá trong hang động trên đỉnh núi Tung Sơn để Tham Thiền nhập định, lấy cái tĩnh mở thông cho cái động, lấy sự tịnh tâm làm đích cho mọi hoạt động của mình sau này, dù đó là hoạt động tôn giáo hay võ thuật.
Có ai bước vào nghề võ mà không vài lần nghe thầy dạy bảo: “Khi mới học võ, tôi chỉ có mong muốn là nắm được đòn thế cao siêu. Lên được đai đen, đai đỏ, tôi lại muốn mình phải thật giỏi để đánh thắng người khác. Nhưng bây giờ, mục đích lớn nhất của tôi chính là phải chiến thắng chính bản thân mình”. Trên các bức tường của võ đường hay treo đại tự “Nhẫn”. Bởi chính đó là nền tảng hun đúc nên tinh thần thượng võ. Chuyện võ kể rằng: Có một đại cung thủ đã đạt đến mức độ thượng thừa có thể “bách bộ xuyên dương”, đi trăm bước ngoảnh đầu lại bắn trúng lá liễu. Cả đời cung thủ này chỉ có một tâm nguyện duy nhất là tìm người để được thua. Ngày kia, theo lời chỉ dẫn của giới võ lâm, anh quyết lên ngọn Hoa sơn thi thố tài năng với một đại sư lừng danh đã ẩn tu. Vị đại sư đồng ý cùng anh leo lên một mỏm đá cheo leo cao nhất. Giữa cuồng phong gào rít, cung thủ chỉ đứng không đã muốn té, nói gì giương cung, lắp tên thi bắn đại bàng. Cuối cùng anh chịu thua và chuyển cung cho vị đại sư trổ tài. Thật bất ngờ, đại sư lại vứt cung xuống vực rồi bình thản nói: “Tôi đã bỏ tiền ra mua được một con đại bàng thật đẹp, thì khổ chi phải leo lên tận đây chịu nguy hiểm để bắn nữa…”. Như tuyết rơi giữa mùa hè. Như tia chớp lóe sáng ngay buổi bình minh. Đầu óc cuồng mê bất bại của cung thủ ngỡ ngàng đại ngộ! Anh lặng lẽ xuống núi, bẻ cung, ngồi thiền và viết ra dòng chữ “Dụng ý bất dụng lực”.
Như vậy thì con đường cũa võ khá gần gũi và thân mật với con đường của người làm nghệ thuật, nó đều khởi từ tâm và qua một quá trình vận động lại trở về tâm, theo một đường xoáy trôn ốc nào đó. Có lẽ người điển hình cho sự hợp nhất hòa đồng giữa Đạo, Võ và Thơ là Lý Bạch. Là một thi hào bậc nhất , luôn đứng ở Top Ten các thi sĩ mọi thời đại, Lý Bạch cũng là một kiếm sỹ lừng danh , một đạo sỹ bí ẩn của Trung quốc.
Và cũng để nói rằng, ở đời tự vượt thắng mình là con đường gian khó biết bao, và con đường ấy dẫn tới “hòa nhi bất đồmg” – hòa mà không đồng – là dẫn tới những cá tính nghệ thuật của nghệ sỹ, dù là kiếm sỹ hay thi sĩ. Hòa với người, hòa với Đại Ngã, nhưng “bất đồng”– vẫn là mình như một cá tính sáng tạo, một cái gì không lặp lại, như những đường kiếm biến ảo, dù nó vẫn theo lực hướng tâm. Ngày nay, nhiều môn võ được đưa ra thi đấu quốc tế tranh thắng thua. Mặt tích cực của nó là giúp người luyện võ tinh thần phấn đấu, rèn luyện sức khỏe, võ thuật. Nhưng nếu chỉ chú tâm vào chiến tích thấy được, e dễ rơi vào cuồng vọng thắng người mà quên mất phải tự thắng chính mình, sự chiến thắng thượng thừa nhất của người luyện võ.
0 comments:
Post a Comment