Một cư dân mạng đã liệt kê danh sách 10 cao thủ võ lâm có thật trong lịch sử, những cái tên này không hẳn ai ai cũng biết, nhưng điều khó hiểu nhất là tại sao Hoa Đà lại đứng đầu trong danh sách này, một thầy thuốc danh tiếng từ lúc nào lại lọt vào hàng ngũ võ lâm?
Hẳn mọi người còn nhớ “Ngũ Cầm Hí” của Hoa Đà chứ? Người ta vẫn tưởng rằng “Ngũ Cầm Hí” (một bài khí công cổ đại, mô phỏng điệu bộ của năm loài thú là cọp, nai, gấu, khỉ và chim) là để rèn luyện sức khỏe, nhưng giới võ thuật Trung Quốc cổ đại lại coi “Ngũ Cầm Hí” là một phương pháp tu luyện nội công. Võ thuật Trung Quốc rất coi trọng nội công, không có nội công tích lũy thì động tác võ thuật chỉ là màn trình diễn đẹp mắt mà thôi, khỏi phải nói “Ngũ Cầm Hí” chính là khởi nguồn của nội công, đó cũng là công pháp tu nội sớm nhất, không những vậy, dựa trên “Ngũ Cầm Hí” người ta đã phát triển thành rất nhiều môn phái võ thuật khác nhau. Do vậy xem ra việc xếp Hoa Đà vào hàng đầu trong các cao thủ võ lâm cũng không có gì khó hiểu.
Sau đây chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem 10 đại cao thủ võ lâm này là ai và những câu chuyện truyền kỳ về họ nhé.
1. Hoa Đà – danh y thời Đông Hán
Ảnh minh họa - Internet |
Ông đã sáng tạo ra “Ngũ Cầm Hí”, được coi là môn võ thuật sớm nhất ở Trung Quốc, do vậy cũng có người gọi ông là người sáng lập võ thuật Trung Quốc.
Hoa Đà cả đời có rất nhiều đệ tử, trong đó có Phàn A ở Bành Thành, Ngô Phổ ở Quảng Lăng và Lý Đương Chi ở Tây An, đều là những người nổi danh. Các tác phẩm của Ngô Phổ gồm có “Ngô Phổ bản thảo”, Lý Đương Chi có “Lý Đương Chi dược lục”, Phàn A thích châm cứu, ba vị đệ tử này sau này đều trở thành những danh y nổi tiếng thời đó.
Ngô Phổ người huyện Quảng Lăng, muốn học y thuật từ Hoa Đà, nhờ sự dạy bảo của Hoa Đà, ông không những có y thuật cao thâm, còn sống đến bách niên giai lão mà tai không lãng, mắt không mờ, tóc không bạc, răng không rụng.
Cuốn sách chính sử đầu tiên ghi chép về “Ngũ Cầm Hí” là sách “Hậu hán thư” và “Tam quốc chí”. Về sau trong sách “Dưỡng sinh diên mệnh lục” của Đào Hoằng Cảnh thời Nam Bắc triều cũng nhắc đến “Ngũ Cầm Hí”. Mỗi cầm hí là tập hợp của một số động tác, do Hoa Đà biên tạo ra dựa trên các học thuyết về ngũ hành, đặc điểm các cơ quan nội tạng, khí huyết, kinh mạch.
2. Nhạc Phi – danh tướng thời Nam Tống
Mẹ danh tướng Nhạc Phi xăm 4 chữ ‘tận trung báo quốc’ trên lưng ông. (Ảnh: Internet) |
Tương truyền “Hình Ý Quyền” là do Nhạc Phi sáng lập, tuy nhiên gần đây có rất nhiều người không đồng ý với quan điểm này. Mặc dù vậy, Nhạc Phi quả không hổ danh là một võ thuật gia, từ nhỏ ông đã học võ từ người cùng quê Chu Đồng.
Nhạc Phi sinh ở Hiếu Đễ, thôn Vĩnh Hà, huyện Thang Âm, Tương Châu, Định Phủ Lộ, tỉnh Hà Bắc (Nay là An Dương, tỉnh Hà Nam), năm thứ 2 Sùng Ninh Bắc Tống Huy Tông. Theo “Thang Âm huyện trí”, Nhạc Phi còn chưa thành niên đã có thể nâng được cây cung nặng 150 kg, có thể kéo được chiếc nỏ nặng khoảng 440 kg. Nhạc Phi võ thuật cao cường, không thua kém võ nghệ của vị thầy mà ông đã theo học từ nhỏ. Ông theo vị danh sư Chu Đồng học bắn cung. Nhạc Phi học võ rất tinh tấn, sau khi Chu Đồng qua đời, ông tiếp tục tìm thầy học võ. Năm thứ 4 Tuyên Hòa (năm 1122 sau công nguyên), Nhạc Phi khi đó 20 tuổi đã bái Trần Quảng, một cao thủ về bắn cung nổi tiếng trong vùng làm thầy, là vị võ sư thứ hai của Nhạc Phi. Đây cũng là một bước ngoặt trong sự nghiệp võ thuật của ông. Trần Quảng đã truyền thụ cho Nhạc Phi quyền thuật, chiến đấu trực diện và các kỹ thuật sử dụng đao thương. Được Trần Quảng hết lòng truyền thụ, Nhạc Phi dốc sức theo học, đạt được đỉnh cao về kỹ thuật đao thương và quyền thuật, trở thành một người “không ai địch nổi” trong huyện.
Có thể nói những câu chuyện về Quan Vũ và Trương Phi được lưu truyền trong dân gian đã có ảnh hưởng sâu sắc đến niềm đam mê võ thuật của Nhạc Phi ngay từ thời niên thiếu. Ông mơ ước sau này có thể trở thành một nhân vật anh hùng tinh thông võ nghệ, lập công cho đất nước như Quan Vũ và Trương Phi. Mãi đến khi tòng quân ra trận, ông vẫn luôn coi Quan Vũ và Trương Phi là những hình mẫu của mình.
Nhạc Phi từng nhiều lần ra trận. 24 tuổi bước chân ra trận, ông đã dần dần rời xa huyện Thang Âm – quê hương nơi ông đã sinh ra. Cho đến khi Nhạc Phi gặp nạn, ông chưa một lần được trở về quê hương. Mang theo chí hướng “tận trung báo quốc”, mỗi trận chiến ông đều tự mình xông lên hàng đầu, trong cuộc chiến chống quân Kim, trình độ võ nghệ của ông đã đạt đến đỉnh cao.
Nhạc Phi từng kịch chiến với quân Kim ở vùng Thái Hành Sơn. Thân là đại tướng quân, nhưng mỗi lần chiến đấu ông đều một mình một ngựa xung phong hàng đầu. Trong “Ngũ nhạc từ minh ký” viết: “Ta đến từ phía bắc sông, khởi nghiệp ở Đài Châu, tòng quân ra trận, từng tham gia hơn 200 trận chiến”. Ông chinh chiến khắp trời Nam đất Bắc, nhiều lần lập được kỳ tích. Năm Nhạc Phi 38 tuổi, tức là năm Thiệu Ưng thứ 10 (1140 sau công nguyên), vào ngày 10 tháng 7, quân địch từ bắc Ngũ Lý Điếm, huyện Lang Thành kéo đến. Một số tướng đề xuất với Nhạc Phi nên tránh xuất hiện hàng đầu, tướng Hoắc Kiên chặn trước đầu ngựa của Nhạc Phi nói: “Tướng công là trọng thần của quốc gia, liên quan đến an nguy của quốc gia, sao có thể khinh địch vậy được?” Nhạc Phi không nghe lời khuyên, Hoắc Kiên vẫn gắng sức ghì cương ngựa lại không cho đi, Nhạc Phi dùng cây roi gạt tay ông ta ra, thúc ngựa xông lên phía quân địch. Vừa thoáng trông thấy viên tướng lĩnh mặc áo bào tím của quân Kim, ông liền anh dũng vung đao xông đến diệt địch. Khi thu dọn chiến trường, ông phát hiện trong chiếc áo bào tím của anh ta có một tấm bài vị màu đỏ hồng có khắc hàng chữ “A Cốt Tạp Bột Cận”, nhờ đó biết được rằng đây là một vị tướng lĩnh quan trọng của quân Kim. Đây cũng là trận chiến cuối cùng mà Nhạc Phi được thi triển võ thuật của mình trên chiến trường, sau đó ông bị khép vào tội danh “có lẽ có” (thời Tống, Trung Quốc, gian thần Tần Cối vu cho Nhạc Phi là mưu phản, Hàn Thế Trung bất bình, bèn hỏi Tần Cối có căn cứ gì không, Tần Cối trả lời “có lẽ có”. Về sau từ này dùng theo ý nghĩa bịa đặt không có căn cứ). Kết thúc một cuộc đời trung quân báo quốc, ông qua đời ở tuổi 39.
Trong suốt 800 năm kể từ sau thời Nam Tống, không một nhân vật lịch sử nào có được sự sùng bái và ái mộ của nhiều tầng lớp nhân sỹ như Nhạc Phi.
Trong lịch sử Trung Quốc có rất nhiều người có tài nghệ võ thuật nổi tiếng như Nhạc Phi, tại sao người ta lại phong cho Nhạc Phi là “Vũ thánh”? Có lẽ bởi họ đánh giá cao phẩm giá cũng như tài văn thao võ lược, đại trí đại dũng của ông.
3. Trương Tam Phong – đạo sỹ trên núi Võ Đang thời nhà Minh, người sáng lập ra Võ Đang quyền.
Trương Tam Phong là người hành tung vô định và là một đạo sĩ thần bí. (Ảnh: Internet) |
Nghe nói Trương Tam Phong có khi 3-5 ngày mới ăn một bữa cơm, có thời gian 2-3 tháng mới ăn cơm một lần. Khi tinh thần thoải mái ông thường chu du trên núi, lúc mệt ông nằm ngả lưng trên mây tuyết. Có khi một ngày đi ngàn dặm, “con người kỳ dị, cảm giác như người ở chốn thần tiên”. Năm thứ 24 Hồng Vũ, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương dặn dò sứ giả: “Nếu thấy Trương Huyền Huyền thì hãy mời về”, nhưng cuối cùng cũng không tìm được Trương Tam Phong.
Lý Tính Chi thời Minh Vũ Tông kể rằng, vào giữa những năm Chính Đức (1506-1521), ông vào núi Võ Đang thì gặp Trương Tam Phong. Nếu đúng như vậy tính ra lúc đó Trương Tam Phong đã 250-260 tuổi rồi.
4. Trương Tùng Khê: Người sáng lập phái Võ Đang Tùng Khê
Trương Tùng Khê là người huyện Ngân (thuộc Ninh Ba, Triết Giang) thời nhà Minh. Vào những năm Gia Tĩnh ông nổi tiếng ở phủ Ninh Ba nhờ Nội Gia quyền. Trương Tùng Khê – nhân vật trong truyện “Ỷ thiên đồ long ký” của Kim Dung là đệ tử thứ 4 của Trương Tam Phong, là người thứ 4 trong thất hiệp Võ Đang.
Nghe nói có hai thuật quyền dũng là ngoại gia và nội gia. Ngoại gia rất thịnh hành ở Thiếu Lâm, công pháp chủ yếu là đối kháng, giương oai diễu võ, khi ra đòn tấn công thường phải đánh thắng người khác. Nội gia ngược lại rất chậm rãi, khoan thai. Công pháp này tập trung vào chống đỡ đòn, nếu không gặp tình huống nguy cấp thì không ra đòn. Khi ra đòn cũng tránh tiêu diệt đối phương, không chê vào đâu được, cho nên công pháp nội gia có tính thiện hơn.
Quyền thuật của ông không truyền cho người ngoài, không phải là đệ tử nhập thất thì không được truyền.
5. Thích Kế Quang: Danh tướng thời nhà Minh kháng Nhật
Thích Kế Quang đã viết nhiều tác phẩm võ học đồ sộ, thuộc hạ của ông là Du Đại Du cũng là một võ thuật gia nổi tiếng thời đó, các binh sĩ do Thích Kế Quang huấn luyện có thể đánh một chọi mười, được coi là đội binh có sức chiến đấu mãnh liệt nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Thích Kế Quang rất thành thạo các kỹ thuật sử dụng côn, đao, thương, xiên, bừa, kiếm, kích, cung, tên, lá chắn, tuy nhiên ông vẫn rất xem trọng quyền pháp. Ông cho rằng quyền pháp mặc dù không có nhiều tác dụng trong thực chiến, nhưng có thể rèn luyện cho chân tay nhanh nhẹn, thân thể thuần thục, do vậy quyền là nguồn gốc của võ nghệ, là điều mà mọi người mới học võ đều phải luyện qua. Do vậy ông đã luyện võ từ những động tác đơn giản nhất, đơn điệu nhất, tập trung vào từng chiêu một, tối kị theo đuổi những chiêu thức cao siêu.
Theo sử sách ghi chép, khi ông luyện quyền “thân pháp đơn giản, thủ pháp thuận tiện, cước pháp nhẹ nhàng, thối pháp bốc cao”, đạt đến cảnh giới cao siêu “mọi thế đều thành, chiến thắng mọi kẻ địch”, động tác của ông tinh xảo khó lường, uyển chuyển nhanh nhẹn. Thích Kế Quang không đồng tình với việc gia truyền kế tục, mà căn cứ vào tố chất, điều kiện, thiên chất, khí chất để thu nạp những người tài từ các gia phái khác. Về quyền thuật ông tham khảo trường quyền 32 thức của Tống Thái Tổ, lục bộ quyền, hầu quyền và hành quyền 72 thức của Ôn gia, 36 thức khóa, 24 thức thám mã, 8 thức lật mình, v.v.. Đồng thời ông cũng dung hợp chiêu pháp của các phái, ví dụ như vào những năm Gia Tĩnh tại Sơn Đông ông đã học được thối pháp độc đáo của Lý Bán Thiên, nã pháp của Ưng Trảo Vương, điệt pháp của Thiên Điệt Trương, đả pháp của Trương Bá Kính. Với mong muốn hoàn thiện quyền pháp, Thích Kế Quang đã đi hàng trăm dặm vào núi sâu để bái một vị cao tăng làm sư, mong được học quyền thuật. Cuối cùng, Thích Kế Quang với sự kiên trì nhẫn nại, trí tuệ uyên bác đã tạo nên một bộ quyền pháp hoàn chỉnh có giá trị thực dụng. Ông đã kết hợp các công pháp tay, khuỷu tay, đầu gối, hông, chân, kết hợp năm loại quyền thuật đè, đánh, ngã, nắm, đá thành “Thích gia quyền” với phong cách đặc biệt.
Thích Kế Quang không chỉ tinh thông quyền thuật, ông cũng nghiên cứu sâu về thương pháp và côn pháp. Thương pháp của ông là tổ truyền, vào thời đó đã rất có danh tiếng. Nhưng Thích Kế Quang vẫn không thỏa mãn, ông đã có bước đột phá mới trong thương pháp. Ông đã xin được học danh gia Đường Thuận Chi, được Đường Thuận Chi chỉ dạy, ông cải tiến thương pháp mà mình đã luyện, giúp nó càng hoàn thiện hơn. Ông được công nhận là thương thủ hàng đầu. Khi đó, tướng triều Minh Du Đại Du tinh thông côn pháp, có tiếng nói trong quân lính, Thích Kế Quang liền tranh thủ thời gian học tập ông. Do ông có nền tảng võ thuật chắc chắn nên tiến bộ rất nhanh, sau đó khi quân doanh tổ chức thi đấu, Thích Kế Quang và Du Đại Du cùng tỉ thí côn pháp, không ngờ rằng Thích Kế Quang còn thắng cả thầy. Thích Kế Quang là người có tư chất thông minh, ông còn học cả côn pháp điên của Thiếu lâm, côn pháp Thanh phong, côn pháp Dương thị, côn pháp Ba cung quyền v.v.., giúp cho võ thuật thương côn của ông càng thêm hoàn hảo.
Thích Kế Quang không chỉ tinh thâm võ thuật Trung Quốc, ông cũng không bỏ qua võ thuật đối kháng của các vùng khác. Trong khi giao chiến với giặc Oa (quân Nhật Bản), ông phát hiện cây kiếm Nhật mà họ sử dụng rất có giá trị trong thực chiến.
Trong một lần tác chiến, Thích Kế Quang thu được một quyển “Kiếm cổ Nhật Bản”, trong đó có một phần thực hành trường đao của Nhật, ông lại từ đó mà chế tác thêm, tạo ra “đao pháp Tân Dậu”. Đao pháp này đã kết hợp những tinh hoa trong đao pháp của Trung Quốc và Nhật Bản thành một thể thống nhất, lại phối hợp với trường đao Nhật Bản trong phòng vệ, đạt đến uy lực vô song. Ngoài ra, để phá vỡ trường đao của Nhật Bản, Thích Kế Quang dùng một loại trúc xoa (gậy trúc có chạc) dùng phơi quần áo trong dân gian để làm binh khí, chuyên phá trường đao của Nhật Bản. Vì trúc xoa có nhiều chạc, có thể tiếp cận cách quân địch sáu, bảy bước, quân địch sợ bị trúc xoa đâm vào mắt nên không dám đến gần. Nếu quân địch rút dao xông đến, có thể dùng trúc xoa đón đầu chống lại. Khi đao chặt vào trúc xoa, nó liền bị dắt lại trong gậy trúc xoa, không thể rút ra được, đầu gậy rất sắc, khi thừa cơ đâm tới, quân địch cầm chắc phần thua. Sau đó quân của Thích gia đã sử dụng phương pháp này một cách rộng rãi, chặn được đao của quân Oa, giành thắng lợi lớn.
Trong thời gian rong ruổi trên ngựa chiến, Thích Kế Quang đã viết cuốn sách về võ thuật “Kỷ hiệu tân thư”. Trong số các tài liệu về võ thuật vào thời kỳ đầu của Trung Quốc, cuốn sách này vô cùng trân quý. Với nội dung phong phú, cuốn sách là tập hợp những nghiên cứu võ thuật rất tinh thâm của ông, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật đối kháng trong chiến đấu và các quyền thuật để tăng cường sức khỏe trong cuộc sống. Sau “Kỷ hiệu tân thư” ông còn viết tiếp cuốn “Luyện binh kỷ thực”, cuốn sách có ý nghĩa rất lớn trong huấn luyện bộ đội biên phòng và chiến tranh chống quân xâm lực thời đó.
Sau khi dẹp yên giặc Oa ở Phúc Kiến, Chiết Giang, Thích Kế Quang lại bị điều về Kế Môn ở phía Bắc, đảm nhận trọng trách bảo vệ cho kinh thành. Năm 1587, Thích Kế Quang qua đời vì bệnh tại quê hương.
6. Võ thuật gia Cam Phượng Trì – võ thuật gia trứ danh thời đầu nhà Thanh
Cam Phượng Trì người Nam Kinh, Giang Tô, là võ thuật gia trứ danh thời nhà Thanh, sinh năm Tuất. Ông là học trò của Hoàng Bách Gia, Nhất Niệm hòa thượng, tinh thông cả nội, ngoại gia quyền, giỏi về phép đạo dẫn. Giới giang hồ gọi ông là “Giang Nam đại hiệp”, tác phẩm của ông có “Hoa quyền tổng giảng pháp”. Do ông có tư tưởng phản Thanh nên dân chúng bị cấm học võ thuật của ông, ông cũng bị nghi là phản Thanh phò Minh, bị quân Thanh truy đuổi phải sống ẩn cư ở Giang Chiết. Trong cuốn “Câu chuyện về Cam Phượng Trì” của Vương Hữu Lượng viết rằng ngoài 80 tuổi ông mới được trở về quê hương.
Cam Phượng Trì là một đại hiệp giới giang hồ nổi tiếng khắp bốn phương, nhân vật nghĩa sĩ Phượng lão gia trong “Nho lâm ngoại sử” của Ngô Kính Tử chính là nói về ông. Cam Phượng Trì vốn là người Nam Kinh, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, lúc nhỏ không thích đọc sách mà chỉ thích võ công, kết giao với giới giang hồ hiệp khách, năm mười mấy tuổi đã nổi tiếng Giang Nam với mệnh danh “tiểu anh hùng xách trâu đánh hổ”. Trong “Thanh sử cảo – Cam Phượng Trì truyện” nói rằng ông có dũng khí hơn người, có thể nâng cả một con trâu.
Cam Phượng Trì nghe nói các cao thủ gia quyền đều tập trung ở Chiết Đông, như Trương Tùng Khê, Đan Tư Nam, Vương Lai Đàm, Hoàng Bách Gia đều là theo phái nội gia quyền từ thời nhà Minh đến nay, họ đã xưng hùng ở Giang Nam. Ông quyết định đến Chiết Đông để tầm sư học đạo, bèn rời Kim Lăng đến núi Tứ Minh. Vùng núi Tứ Minh khi đó còn là vùng rừng núi rậm rạp, cây cổ thụ ngút trời, trong rừng thường có mãnh hổ xuất hiện, người dân trong vùng đều không dám vào núi một mình.
Khi đó thành Dư Diêu, Chiết Giang có một võ sư nội gia quyền là Hoàng Bách Gia, ông là con trai của nhà tư tưởng và sử học nổi tiếng Hoàng Tông Hi. Hoàng Tông Hi khi ở Thanh Bình từng chiêu mộ nghĩa quân, thành lập “Thế trung đường”, từng tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Sau khi nhà Minh suy vong, Tông Hi yêu cầu Bách Gia theo nghiệp võ, kế tục chủ trương chống nhà Thanh của cha. Hoàng Bách Gia bái Vương Lai Đàm làm thầy, học được các tinh hoa của nội gia, đạt được công phu tinh thâm. Một hôm Hoàng Bách Gia nghe nói có “tiểu anh hùng” Cam Phượng Trì đến vùng, cảm thấy có chút tò mò, bèn tìm đến nhà trọ hỏi thăm, vừa hay gặp được Cam Phượng Trì, sau một bài thử sức, Bách Gia liền nhận Phượng Trì là đệ tử, truyền thụ cho ông các võ thuật của nội gia quyền. Sau ba năm, Hoàng Bách Gia gọi Cam Phượng Trì đến bên nói rằng: “Toàn bộ bản lĩnh của lão phu đều đã truyền hết cho trò rồi, từ hôm nay, hãy đến Đại Phượng Sơn cách huyện này 80 dặm, quy tụ anh hào các nơi, hãy làm một vị thầy nhân nghĩa, người học võ nghệ phải vì dân mà trượng nghĩa hành hiệp, hãy gây dựng một sự nghiệp kinh thiên động địa ở nơi đó”. Cam Phượng Trì sau này lại bái Nhất Niệm hòa thượng làm thầy để học quyền pháp Thiếu Lâm, đồng thời bắt đầu sự nghiệp trượng nghĩa hành hiệp, truyền kỳ thế sự của ông.
Tương truyền rằng ông từng trợ giúp nữ hiệp Lữ Tứ Nương đột nhập vào cung nhà Thanh để ám sát Ung Chính. Câu chuyện này mặc dù không có căn cứ lịch sử, nhưng cũng chứng tỏ ông có tư tưởng “phản Thanh phò Minh” sâu sắc đến mức nào.
7. Đổng Hải Xuyên – người sáng lập Bát quái chưởng
Đổng Hải Xuyên sinh năm Gia Khánh thời nhà Thanh (1797-1882), người Mễ Gia huyện Văn An tỉnh Hà Bắc, thuở nhỏ thích các loại quyền thuật, thường đến vấn an các vị thầy ở Giang Nam, dưới chân núi Cửu Hoa ông gặp một trang hảo hán đang đi quanh gốc cây, đi ngược rồi lại đi xuôi vòng, mái tóc dựng đứng (biểu hiện của khí huyết thông suốt), bèn hỏi ông đường đi. Vị hảo hán chỉ dẫn ông đến chỗ của sư phụ anh ta là Vân Bàn lão tổ. Từ đó, Đổng Hải Xuyên ở lại nhà của Vân Bàn lão tổ trên núi Cửu Hoa mà học võ nghệ, trải qua mấy mùa xuân hạ, cuối cùng đã học xong; đến khi ông ra đi, sư phụ tặng cho ông hai chiếc chùy và dặn: “Võ nghệ của con đã thuộc hàng cao thủ trong các cao thủ, nhưng Chuyển chưởng (lúc đó chưa có tên gọi là Bát quái chưởng) vẫn chưa hoàn thiện, con cần phải hoàn thiện và phát triển nó“.
Sau khi xuống núi, Đổng Hải Xuyên đến kinh thành, được người giới thiệu vào làm tạp dịch trong phủ Túc Vương.
Trong một lần tỉ thí ở Vương phủ, Đổng Hải Xuyên đá cái bàn từ phía sau ra trước mặt người xem, cứu hộ vệ của Vương phủ là Cát Hồi Hồi (là người dân tộc Hồi, họ là Cát, nên được người ta gọi là Cát Hồi Hồi. Người này tâm địa bất chính, nhưng công lực Thiết Sa chưởng lại rất cao, khi đệ tử của Đổng Hải Xuyên là Mã Duy cùng bàn việc với hắn ta đã bị hắn lén phóng chưởng làm tổn hại vùng eo sau, lúc đó không việc gì, nhưng ba ngày sau thì bị trọng thương không kịp chữa trị nên tử vong. Tất nhiên Cát Hồi Hồi cũng không có kết cục tốt đẹp). Đối thủ từ trên đài rớt xuống (khi người này bị ném đi, đầu chúc xuống đất, may có Đổng đỡ nếu không đã chết rồi), lúc đó Túc Vương mới biết trong phủ còn có cao thủ giấu mặt. Trên võ đài, Đổng Hải Xuyên nhân tiện biểu diễn thêm vài tuyệt chiêu nữa như chưởng bách thạch ma, thiếp tường họa, tuyệt chiêu cuối cùng của ông là chiêu chạy vòng quanh thân cây, càng quay càng nhanh, cuối cùng chân rời khỏi mặt đất, gọi là lăng không bát bộ.
Khi đó Dương Lộ Thiền – danh sư Thái cực quyền cùng tỉ thí với Đổng Hải Xuyên trên võ đài của Vương phủ, trận tỉ thí vô cùng ngoạn mục, cuối cùng không phân thắng bại. Sau này Bát quái chưởng đã được Đổng Hải Xuyên lưu truyền cho hậu thế. Đổng Hải Xuyên sống rất thọ, đến khi sắp lâm chung, nằm trên giường hai tay vẫn múa bài quyền thức cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng. Bát quái chưởng lưu truyền khắp trong ngoài nước cho đến tận ngày nay. Các truyền nhân của gia tộc họ Đổng nhiều không đếm xuể, phần mộ của ông hiện đã được rời đến vùng ngoại ô phía tây Bắc Kinh và được trùng tu.
8. Cao thủ võ lâm Vương Ngũ
Võ hiệp danh tiếng chốn kinh thành. Ông tên thật là Vương Chính Nghị, tự là Tử Bân, nguyên quán Thương Châu, Hà Bắc, người dân tộc Hồi. Ông là học trò thứ 5 của Lý Phượng Cương, nên người ta gọi ông là “tiểu ngũ tử”; cũng bởi ông đao pháp điêu luyện, lại là người chính nghĩa cao thượng, nên được mọi người tôn kính mà gọi ông là “Đại Đao Vương Ngũ”. Vương Chính Nghị cả đời hành hiệp trượng nghĩa, ông từng ủng hộ phong trào Duy tân, dẹp loạn cho đất nước, trở thành một trang hào kiệt được người người ca tụng. Trong số 10 đại cao thủ cuối thời nhà Thanh tiếng tăm lưu truyền trong dân gian, tên tuổi của ông ngang hàng với các võ sư như Yến Tử Lý Tam, Hoắc Nguyên Giáp, Hoàng Phi Hồng.
Vương Ngũ xuất thân bần hàn, năm ba tuổi phụ thân lại qua đời vì bệnh. Ông cùng mẫu thân nương tựa vào nhau mà sống, từ rất nhỏ ông đã phải làm mọi việc để kiếm sống, sau này ông bái Tiêu Hòa Thành làm thầy, từ đó đặt nền tảng vững chắc cho sự nghiệp võ thuật của ông.
Võ sư nổi tiếng nhất Thương Châu thời đó là Lý Phượng Cương. Vì muốn nâng cao trình độ võ nghệ, Vương Ngũ rất muốn bái ông làm thầy, nhưng nhiều lần bị từ chối, ông liền quỳ rất lâu trước cửa nhà Lý, một lòng thành khẩn xin được học, Lý Phượng Cương cuối cùng đã cảm động trước tấm lòng đó mà nhận ông làm đệ tử. Vương Ngũ không phụ kỳ vọng của thầy, chỉ mấy năm sau, võ công của ông đã không kém sư phụ. Để rèn luyện ông thành một nhân tài toàn diện, Lý đã giới thiệu ông với sư huynh của mình là Lưu Sĩ Long, cùng nhau hành tẩu giang hồ. Sau mấy năm rèn luyện, Vương Ngũ cáo biệt sư phụ, năm Đồng Trị thứ 10, ông đến Thiên Tân, rồi lại đến Bắc Kinh, ông được người giới thiệu vào làm ở tiêu cục (một tổ chức chuyên bảo vệ an toàn cho người và tài sản).
Năm thứ 3 Quang Tự, nhờ số tài sản tích lũy được, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè, Vương Ngũ tự mình đứng ra mở tiêu cục Thuận Nguyên tại phố Bán Bích (khu Sùng Văn), Bắc Kinh (sau đó chuyển đến khu Quảng An). Tiêu cục Thuận Nguyên có phạm vi hoạt động rất lớn, từ Sơn Hải Quan ở phía Bắc đến Thanh Giang Phổ, Hoài An, Giang Tô ở phía Nam. Ông làm ăn nghiêm chỉnh, thu phí hợp lý, lại là người đạo đức cao thượng nên công việc kinh doanh rất phát đạt, chỉ trong thời gian ngắn đã danh tiếng như cồn.
Vương Ngũ không chỉ được mọi người kính trọng bởi nghề nghiệp của ông mà còn bởi nghĩa cử yêu nước cao đẹp. Sau khi chiến tranh Giáp Ngọ thất bại, quan Ngự sử An Duy Tuấn dâng sớ xin nghiêm trị Lực Trần Nghị và Chi Tệ tội bán nước, nhưng lại bị triều đình nhà Thanh giáng chức xuống làm trấn thủ biên cương. Vương Ngũ vì căm phẫn mà đảm trách việc hộ tống An Duy Tuấn đi nhậm chức. Trở về kinh thành, ông bèn mở học đường tại Hương Am Trù, lấy tên là “Phù võ nghĩa học”. Mọi người ai cũng biết chuyện Vương Ngũ kết giao với Đàm Từ Đồng. Vương Ngũ nghĩa hiệp, phóng khoáng, đã cùng Đàm Từ Đồng kết huynh đệ, được Đàm truyền thụ kiếm pháp, hai người từ đó đã kết tình bằng hữu sâu đậm.
Năm 1898, chính biến Mậu Tuất bước vào giai đoạn cao trào, Đàm Từ Đồng nhận chỉ vào kinh, nhậm chức Tứ phẩm quân cơ chương kinh và tham gia vào cuộc chính biến. Thời gian này, Vương Ngũ đảm nhận việc lo ăn ở, đi lại và bảo đảm an toàn cho Đàm Từ Đồng. Sau khi chính biến thất bại, Đàm Từ Đồng để biểu thị quyết tâm thức tỉnh dân chúng, đã cam chịu bị bắt. Vương Vũ biết tin lòng như lửa đốt, thăm dò tin tức các nơi, mua chuộc quan cai ngục, còn liên lạc với các trí sĩ giới võ lâm để bí mật giải thoát cho Đàm, nhưng lại bị Đàm Từ Đồng kiên quyết cự tuyệt. Ngày 27 tháng 9, Đàm Từ Đồng một trong số “6 quân tử trong chính biến Mậu Tuất” bị Cương Nghị Giám trảm tại Thái Thị Khẩu ngoài cổng Vũ Môn, Vương Ngũ biết tin đau đớn tột cùng.
Năm 1900, phong trào vận động phản đế ái quốc của Nghĩa Hòa Đoàn khởi phát ở phương Bắc. Vương Ngũ phái người tích cực tham gia, cùng kề vai sát cánh với quân của Nghĩa Hòa Đoàn công kích các giáo đường. Sau đó cuộc vận động Nghĩa Hòa Đoàn tiến triển bất lợi ông bèn quay về Bắc Kinh, nhưng ở Bắc Kinh một thời gian thì bị mật báo, nơi ở của ông bị liên quân 8 nước bao vây, Đại Đao Vương Ngũ đã tự mình nhận trách nhiệm để không liên lụy đến thân nhân, bạn bè, sau đó ông bị quân Đức bắn chết ở Đông Hà Diên ngoài Tiền Môn, khi đó ông 56 tuổi.
Sau khi Vương Ngũ bị giết, đầu của ông bị treo ở ngoài thành, gia đình không cách nào khâm liệm cho ông. Hoắc Nguyên Giáp ở Thiên Tân nghe tin vội đích thân đến, trong đêm tối hạ đầu của Vương Ngũ xuống, mang đi mai táng. Tối hôm đó, Hoắc Nguyên Giáp ở lại trong căn phòng cũ của Vương Ngũ.
9. Cao thủ võ lâm Hoàng Phi Hồng
Hoàng Phi Hồng ảnh wikipedia |
Cha của ông là Hoàng Kỳ Anh, là một trong “thập hổ Quảng Đông” (Hoàng Phi Hồng lại không phải là một trong thập hổ Quảng Đông, thập hổ Quảng Đông gồm có: Vương Ẩn Lâm, Hoàng Trừng Khả, Tô Hắc Hổ, Hoàng Kỳ Anh, Chu Thái, Đàm Tể Quân, Lê Nhân Siêu, Trần Thiết Chí, Tô Xán, Lương Khôn), Phi Hồng 6 tuổi đã theo cha học võ, 13 tuổi cùng cha biểu diễn võ thuật ngoài phố kiếm tiền, nhận được công phu gia truyền. Sau đó được Lâm Phúc Thành – đệ tử ruột của Thiết Kiều Tam truyền thụ cho thiết tuyến quyền, tuyệt chiêu phi đà, ông cũng học được của Tống Huy Thang vô hình cước, võ nghệ ngày càng tinh thâm, sau đó, Hoàng Phi Hồng theo cha đến Phòng Thiết Quán ở Lạc Thiện Sơn, Quảng Đông để thu nhận đồ đệ truyền thụ võ thuật. Sau khi Hoàng Kỳ Anh qua đời, Hoàng Phi Hồng nối nghiệp của cha trở thành một võ sư, ông là vị thày dạy võ trẻ nhất trong giới võ lâm ở phương nam thời bấy giờ.
Ông từng được đô đốc Ngô Toàn Mỹ, thủ lĩnh quân Hắc kỳ Lưu Vĩnh Phúc mời huấn luyện võ thuật cho quân đội. Tương truyền ông có các tuyệt chiêu như song phi đà, tử mẫu đao, La Hán bào, vô hình cước, thiết xuyên quyền, đơn song hổ trảo, cung tự phục hổ quyền, La Hán kim tiền tiêu, tứ tượng tiêu long côn và đao gia đại bá. Vì ông rất thành thạo các tư thế võ của hổ nên trong giới võ lâm ông có biệt hiệu là “Hổ si”. Ngoài ra Hoàng Phi Hồng còn giỏi múa sư tử, nên có danh hiệu là vua sư tử Quảng Đông. Hoàng Phi Hồng được sự trợ giúp của Lâm Thế Vinh và Đặng Tú Quỳnh, đã cùng hai con trai của ông di cư đến Hồng Kông mở võ đường thu nhận đệ tử, truyền thụ võ nghệ. Ông qua đời năm 1924 ở Hồng Kông.
Hoàng Phi Hồng tung hoành ngang dọc trong giới giang hồ suốt 10 năm, với sự dũng cảm, trí tuệ và các tuyệt chiêu hơn người, ông đã trải qua hàng trăm trận chiến, lập những chiến công hiển hách. Ông trở thành một đại võ sư nổi tiếng trong ngoài nước. Là người võ nghệ cao cường cùng với đạo đức cao thượng, ông chủ trương “người tập võ phải lấy đức làm đầu”, chưa từng ỷ mạnh ức hiếp kẻ yếu, luôn lấy đức để thu phục lòng người. Ông xóa bỏ những chướng ngại trong môn phái, tôn người có tài năng làm thầy, ông cũng gạt bỏ tư tưởng trọng nam kinh nữ, là một trong những người đi tiên phong trong việc truyền thụ võ nghệ cho nữ đệ tử và lập ra đội nữ sư tử. Trong số rất nhiều đệ tử của ông, nam có Lương Khoan, Lâm Thế Vinh, nữ có Mạc Quế Lan, Đặng Tú Quỳnh là những tên tuổi nổi danh nhất thời đó. Những người khác trong pháp môn của ông cũng có danh tiếng khắp Quảng Đông, Quảng Tây, Hồng Kông, Đài Loan, Đông Nam Á. Lúc sinh thời ông luôn phát huy quốc túy của dân tộc, kêu gọi chính nghĩa, đề cao sự dũng cảm, bênh vực kẻ yếu, cứu nhân độ thế, ông đã lưu lại rất nhiều câu chuyện để đời trong giới võ lâm.
10. Cao thủ võ lâm Hoắc Nguyên Giáp
(Ảnh: Internet) |
Hoắc Nguyên Giáp (18/1/1868 – 14/9/1910), tự là Tuấn Khanh, nguyên quán ở An Lạc Đồn, Đông Quang, tỉnh Hà Bắc (thuộc Thương Châu), người dân tộc Hán. Ông sống tại thôn Tiểu Nam Hà, Thanh Hải, Thiên Tân (nay thuộc thị trấn Nam Hà, Tây Thanh, Thiên Tân, để kỷ niệm Hoắc Nguyên Giáp – vị võ sư yêu nước nổi tiếng trong ngoài nước này, chính quyền thành phố Thiên Tân đã phê chuẩn từ ngày 18/1/2009 đổi tên thị trấn Nam Hà quê hương ông thành thị trấn Tinh Võ) Năm Quang Tự thứ 27 (1901), một người Nga đến Thiên Tân biểu diễn võ nghệ tại vườn hoa, anh ta đăng quảng cáo trên báo, tự phong mình là đại lực sĩ hàng đầu thế giới, không có địch thủ ở Trung Quốc.
Hoắc Nguyên Giáp nhìn thấy quảng cáo, lại nghe nói tên người Nga này vẫn công khai ăn nói bừa bãi, lăng mạ người Trung Quốc, nên vô cùng phẫn nộ, bèn cùng chủ nhân của Hoài Khánh hội quán Nông Kính Tôn và đệ tử Lưu Chấn Thanh đến vườn hoa, nhìn thấy tên đại lực sỹ người Nga vẫn đang đứng trên võ đài mà tự tâng bốc mình là “đại lực sỹ hàng đầu thế giới”, “Quốc gia yếu nhược” nếu có người có khả năng thì hãy lên võ đài tỉ thí. Hoắc Nguyên Giáp sao có thể khoanh tay đứng nhìn? Gạt phăng những lời can gián của mọi người, ông nhảy một phát lên võ đài đứng hiên ngang, thẳng thắn nói: “Ta là kẻ bệnh phu Đông Á Hoắc Nguyên Giáp đây, xin được giao đấu với ngài trên võ đài”. Lúc này người phiên dịch nói cho tên người Nga kia về lai lịch của Hoắc Nguyên Giáp.
Tên người Nga sau khi nghe uy danh của Hoắc Nguyên Giáp liền không dám ngạo mạn nữa, lập tức mời Hoắc Nguyên Giáp vào hậu đài. Hoắc Nguyên Giáp hỏi: “Tại sao lại làm nhục Trung Hoa chúng tôi?” Đồng thời đưa ra 3 điều kiện: Một là sửa lại quảng cáo, phải bỏ câu “đệ nhất thế giới” đi; hai là anh ta phải công khai nhận lỗi vì đã nhục mạ Trung Quốc, xin lỗi trước mặt mọi người; ba là: Hoắc sẽ quyết một trận sống mái với anh ta. Rồi bắt anh ta quyết định thật nhanh. Lực sỹ người Nga không dám tỉ võ, đành phải làm theo hai điều kiện kia, đồng ý đăng báo cải chính và công khai nhận lỗi, sau đó lặng lẽ rời khỏi Thiên Tân.
Năm 1909, đại lực sĩ người Anh tên là Tony đăng quảng cáo ở Thượng Hải nhục mạ “bệnh phu Đông Á”. Hoắc nhận lời mời của bạn đến Thượng Hải hẹn ngày tỉ thí. Khiếp sợ trước uy lực của Hoắc Nguyên Giáp, đối phương đề nghị đưa vạn quan tiền ra cá cược, được bạn bè giúp đỡ, ông cũng đồng ý bỏ ra vạn quan tiền. Khi đối phương trì hoãn, Nguyên Giáp đăng quảng cáo trên báo viết: “Thế giới mỉa mai chúng ta là nước yếu nhược, tôi là một kẻ yếu nhược trong một nước yếu nhược, mong được thử sức với những kẻ mạnh trong thiên hạ”. “Lời kêu gọi” này đã truyền đến các lực sỹ ở ngoại quốc. Uy danh của Hoắc khiến Tony không dám cả gan đến giao đấu nữa, bèn công khai xin lỗi rồi biến mất tăm.
Ngày 1/6/1910, được sự giúp đỡ của các đồng sự trong giới võ lâm như Nông Kính Tôn, ông đã tổ chức “Trung Quốc tinh võ thể thao hội” (sau đó đổi thành “tinh võ thể dục hội”, một tổ chức võ thuật nhằm hệ thống hóa và phổ biến rộng rãi võ thuật truyền thống Trung Quốc). Tôn Trung Sơn từng ca ngợi Hoắc Nguyên Giáp là “niềm hi vọng của nước ta, người người không học không được”, ông đã đích thân viết bốn chữ “tinh thần thượng võ” tặng cho Tinh võ thể dục hội, thể hiện sự tín nhiệm của mình trước tinh thần đạo đức cao thượng của Hoắc gia quyền. Tháng 9 năm 1910, hội trưởng hội Judo Nhật Bản mang theo hơn 10 cao thủ sang tỉ thí võ nghệ với Hoắc Nguyên Giáp, cuối cùng đều bại trận dưới tay Hoắc. Người Nhật tổ chức tiệc rượu mời Hoắc, trong tiệc rượu thấy Hoắc ho khạc, bèn mời bác sĩ Nhật Bản vào chữa trị. Ông một đời chính trực, không ngờ lại bị trúng độc mà tử vong vào ngày 14 tháng 9. Năm đó ông 42 tuổi.
Sau khi Hoắc Nguyên Giáp tạ thế, các đệ tử của Tinh võ hội khi đó và các nhân sĩ ái quốc trong giới võ thuật đã tổ chức một buổi lễ tưởng niệm long trọng cho ông, tặng ông câu đối “xả thân vì chính nghĩa”, rồi mai táng ông tại vùng ngoại ô phía Bắc Thượng Hải. Năm sau, đệ tử của ông là Lưu Chấn Thanh di dời quan tài ông đến thôn Tiểu Nam Hà. Tinh võ hội Thượng Hải do đệ tử Nguyên Khanh và con trai thứ Đông Các đảm nhận dạy dỗ. Phân hội các nơi tiếp tục phát triển, 10 năm sau, các chi nhánh của Tinh võ hội đã phát triển đến 43 vùng trong và ngoài nước, số lượng hội viên lên đến hơn 400.000 người.
Theo NTDTV
Nhã Thi
0 comments:
Post a Comment