Ảnh minh họa chân dung Lê Phụng Hiểu. Ảnh: Truyenxuatichcu.com.
Cho đến nay, năm sinh và năm mất của Lê Phụng Hiểu
vẫn chưa thống nhất, chỉ biết ông sống thọ tới 77 tuổi, quê ở Băng Sơn,
tổng Dương Sơn, huyện Cổ Đằng, lộ Thanh Hoá (nay thuộc xã Hoằng Sơn,
huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Ngay từ thuở nhỏ, ông rất yêu thích và
ham mê các môn võ thuật, lớn lên nổi tiếng là người sức khỏe muôn địch,
đô vật nức tiếng trong vùng, thuộc dạng dũng sỹ “bạt sơn cửu đỉnh” như
Hạng Vũ, Phàn Khoán ở Trung Quốc.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, bấy
giờ, làng Đàm Xá cậy đông người đã chiếm hết vùng đất màu mỡ mà lẽ ra
phải thuộc về làng Cổ Bi, Lê Phụng Hiểu lúc đó chưa làm quan,
đã đứng ra giúp làng Cổ Bi. Ông nói “một mình tôi có thể đánh được bọn
họ”. Các phụ lão làng Cổ Bi mừng lắm, bèn làm cơm rượu để thiết đãi Lê
Phụng Hiểu.
Sau khi ăn hết cả một nồi cơm lớn,
uống hết cả hũ rượu, Lê Phụng Hiểu bèn đến khiêu chiến với làng Đàm Xá.
Dân làng kéo ra xúm lại tấn công, ông cứ đứng thẳng lưng nhổ bật cây cối
xung quanh mà quật tới tấp như đánh gà, đánh vịt, dân làng Đàm Xá phải
bỏ chạy toán loạn, buộc phải trả lại hết ruộng cho dân làng Cổ Bi. Từ
đó, làng Đàm Xá không dám ỷ thế cậy đông mà chèn ép làng Cổ Bi nữa.
Tiếng lành đồn xa, vua Lý Thái Tổ nghe danh Lê Phụng Hiểu
nên đã triệu ông vào triều bổ sung vào đội quân túc vệ, sau thăng dần
đến chức Vũ vệ tướng quân. Sau này, ông đã để lại giai thoại về “nhát
gươm định loạn” nối tiếng trong lịch sử nước ta.
Sau khi vua Lý Thái Tổ băng hà (1028),
linh cửu còn chưa kịp an táng thì ba vương khác (con trai vua) là Đông
Chính vương, Dực Đức vương và Vũ Đức vương với âm mưu tranh giành ngôi
báu, đã cùng nhau đem quân về triều, mai phục trong cung để đánh úp Thái
tử Phật Mã – người đã được truyền ngôi trước đó.
Sau khi Thái tử đến điện Càn Nguyên,
nhận thấy có biến, bèn sai tùy tùng đóng hết các cửa điện, ra lệnh cho
các vệ sĩ sẵn sàng phòng giữ, rồi bảo với mọi người “ta với anh em không
bạc bẽo chút nào. Nay ba Vương lại làm hành động bất nghĩa, quên di
mệnh của tiên đế, muốn mưu chiếm ngôi báu, các khanh nghĩ thế nào?”
Nội thị Lý Nhân Nghĩa tâu rằng “anh em
với nhau, bên trong có thể hiệp sức bàn mưu, bên ngoài có thể cùng nhau
chống giặc. Nay ba Vương làm phản thì là anh em hay là kẻ thù? Xin cho
bọn thần đánh một trận để quyết được thua.”
Tuy nhiên, thái tử Phật Mã là người
nặng lòng nhân nghĩa, xót tình cốt nhục không muốn cảnh anh em chém giết
lẫn nhau, cứ lần lữa không quyết, chỉ khi quân của ba vương vây rát
quá, thái tử mới đành ủy thác việc chống đối cho các triều thần.
Lúc ấy, Lê Phụng Hiểu rút gươm chạy
thẳng tới cửa Quảng Phúc và hô to rằng “Bọn Vũ Đức Vương ngấp nghé ngôi
báu, không coi vua kế vị vào đâu, trên thì quên ơn tiên đế, dưới thì
trái nghĩa tôi con. Vì thế thần là Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này”.
Dứt lời, ông chạy thẳng tới ngựa của
Vũ Đức vương. Vương hoảng sợ quay ngựa chạy tránh, nhưng ngựa quỵ gối,
Lê Phụng Hiểu chém chết Vũ Đức vương. Đám tàn quân còn lại bị quan quân
đuổi theo giết sạch, chỉ còn lại Đông Chính vương và Dực Thánh vương
chạy thoát.
Sau khi dẹp xong loạn tam vương, Lê
Phụng Hiểu mặc nguyên giáp trụ chạy về điện Càn Nguyên, báo tin với Thái
tử Phật Mã. Thái tử hết sức ca ngợi lòng trung dũng của ông, sau khi
lên ngôi đã phong làm Đô thống Thượng tướng quân, tước Hầu.
Sau này, Lê Phụng Hiểu tiếp tục lập
được nhiều nhiều chiến công cho triều đình. Tên tuổi và công trạng của
ông không những được sử sách lưu danh, mà còn được dân gian truyền tụng.
Nhiều làng xã ở xứ Kinh Bắc, nơi ông từng đóng quân đánh giặc, đã thờ
ông làm Thành hoàng. Trong các trò chơi dân gian có tục thi vật để tưởng
nhớ đến Đô thống Thượng tướng quân Lê Phụng Hiểu.
Sinh thời, Lê Phụng Hiểu là vị tướng
đánh đâu thắng đó, danh tiếng lẫy lừng khắp các nước trong khu vực. Ngày
nay, ở Hà Nội, Thanh Hóa, và nhiều địa phương khác đều có con đường
mang tên ông.
Năm 1044 sau khi đánh thắng Chiêm
Thành trở về, được ban thưởng nhờ có nhiều chiến công, ông không nhận
chức tước, chỉ xin nhà vua cho lên núi Băng Sơn (quê ông), ném một chiếc
đao đi xa, đao rơi ở đâu thì xin lấy chỗ ấy làm mốc để khoanh đất ban
thưởng cho ông làm sản nghiệp.
Tương truyền, ông đã ném đao bay xa
tới 10 dặm (khoảng 4.5km), rơi xuống thôn Đa Mĩ. Vua đã cho đo đất ban
sổ ruộng ấy gồm 100 mẫu và miễn thuế cho số ruộng này. Nhân từ sự kiện
ấy mà nhân dân Ái Châu (Thanh Hóa) gọi ruộng thưởng công là “ ruộng ném
đao” thác đao điền.
0 comments:
Post a Comment